Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, sản xuất trồng trọt Đông Xuân 2021 - 2022 tại vùng Nam Bộ gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, giá một số vật tư đầu vào sản xuất tăng, xuất khẩu một số thời điểm gặp khó khăn do biến động thị trường. Các tỉnh, thành phố vùng Nam Bộ đã chủ động trong bố trí thời vụ, cơ cấu giống, áp dụng các giải pháp kỹ thuật để né hạn, mặn và công tác thu hoạch, xuất khẩu nông sản trong sản xuất vụ Đông Xuân 2021 - 2022. Kết quả sản xuất vụ Đông Xuân 2021 - 2022 cơ bản đạt được kế hoạch đề ra. Sản xuất lúa vụ Đông Xuân 2021 - 2022 của vùng Nam bộ là 1.579,5 nghìn ha, năng suất ước đạt 72,0 tạ/ha, sản lượng ước đạt 11.357,5 nghìn tấn. Diện tích trồng giống lúa thơm, đặc sản và chất lượng cao chiếm tỷ lệ 78,5%, tăng 1,3% so với vụ Đông Xuân 2020 - 2021. Diện tích chuyển đổi cây trồng trên đất lúa vụ ước đạt 21,5 nghìn ha, trong đó chuyển đổi cây hằng năm là 15,6 nghìn ha; cây ăn quả là 4,8 nghìn ha và nuôi trồng thủy sản là 0,1 nghìn ha. Đối với diện tích lúa Đông Xuân chưa thu hoạch, cần tiếp tục theo dõi, phòng trừ sâu các đối tượng sâu bệnh kịp thời, diện tích đến thời kỳ thu hoạch cần đẩy mạnh thu hoạch nhanh gọn, với phương châm “xanh nhà hơn già đồng” đảm bảo an toàn trên diện tích chưa đến kỳ thu hoạch.
Để chuẩn bị tốt cho sản xuất cây trồng vụ Hè Thu và các mùa vụ tiếp theo, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề nghị các địa phương vùng Nam Bộ cần tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ như sau: Thường xuyên cập nhật diễn biến thời tiết, khí tượng, thủy văn để có giải pháp ứng phó kịp thời, hiệu quả, kiểm tra hệ thống thủy lợi, củng cố, cải tạo thủy lợi nội đồng, đê bao, bờ bao, công tác chuẩn bị ứng phó với mưa, lũ bất thường;
Xây dựng kế hoạch sản xuất lúa vụ Hè Thu, vụ Thu Đông, vụ Mùa cho cả năm 2022 theo định hướng chung của Bộ, linh hoạt điều chỉnh theo tình hình thực tế; chỉ đạo giảm lượng giống, phân bón và thuốc bảo vệ thực vật để giảm giá thành, nâng cao chất lượng, tăng lợi nhuận cho người sản xuất, trong đó: Vụ Hè Thu: thời vụ cần khoanh vùng cụ thể theo nguồn nước cung cấp cho sản xuất; xuống giống sớm và tập trung, tính toán đến các vụ sản xuất tiếp theo; cơ cấu giống tập trung giống lúa thơm, đặc sản và chất lượng cao; với giống lúa nếp cần tính toán kỹ đầu ra cho tiêu thụ sản phẩm; Vụ Thu Đông: theo dõi sát tình hình nguồn nước, nhu cầu tiêu dùng của thị trường để bố trí diện tích linh hoạt trong toàn vùng Đồng bằng sông Cửu Long 700 nghìn ha; thời vụ gieo phải tính toán với phương châm tránh, né hạn, mặn vào cuối vụ Đông Xuân 2022 - 2023; tăng cường sử dụng giống chất lượng cao, hạn chế giống lúa nếp và lúa chất lượng trung bình; củng cố hệ thống đê bao, bờ bao để hạn chế ảnh hưởng do lũ đến sản xuất vụ Thu Đông; Vụ Mùa: đối với diện tích lúa tôm cần ưu tiên sử dụng giống chất lượng cao, đặc sản để nâng cao hiệu quả kinh tế.
Trong sản xuất các loại cây trồng khác cần ưu tiên những nội dung sau: Nhân rộng giống sắn mới có khả năng kháng bệnh khảm lá sắn; quản lý tốt nguồn giống sạch bệnh cho sản xuất và theo dõi phòng chống hiệu quả bọ phấn trắng gây bệnh vi rút khảm lá sắn. Quản lý tốt sâu keo mùa thu gây hại trên cây ngô; Cây công nghiệp dài ngày: tăng cường, áp dụng các kỹ thuật canh tác tiến bộ vào sản xuất, tưới tiết kiệm nước, đẩy mạnh tái canh cây cà phê, cây điều bằng giống mới, thích nghi với sự biến đổi của khí hậu. Không mở rộng diện tích và trồng tái canh hồ tiêu trên diện tích bị sâu bệnh gây hại nặng và điều kiện sinh thái không phù hợp; Cây ăn quả: Quản lý chặt việc mở rộng diện tích cây ăn quả, tiếp tục theo dõi, chỉ đạo và hướng dẫn rộng rãi phòng chống hạn, mặn trên vườn cây ăn quả, vườn giống cây ăn quả, tăng cường giám sát, đánh giá cấp mã số vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói.
Tăng cường sử dụng phân hữu cơ, sản xuất chứng nhận, các biện pháp kỹ thuật đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trong sản xuất lúa, rau, quả, cây công nghiệp trong tiêu thụ nội địa và xuất khẩu.
Tăng cường công tác thanh kiểm tra vật tư đầu vào sản xuất trên địa bàn; Đẩy mạnh liên kết sản xuất theo chuỗi giữa nông dân, tổ hợp tác, hợp tác xã với doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu bao tiêu sản phẩm, hình thành vùng sản xuất hàng hóa lớn, tăng hiệu quả sản xuất..
H.N.H - Nguồn Công văn số:1826/UBND-KTNV